NHẬN BIẾT VÀ BIỆN PHÁP PHÒNG HỘI CHỨNG GIẢM ĐẺ ( BYD) TRÊN VỊT

Bệnh do Tembusu virus trên vịt gây hội chứng giảm đẻ trên vịt (BYD) do một chủng flavirus mới, có tên là Tembusu virus gây ảnh hưởng đến cả đàn vịt giống và vịt đẻ trứng.

1. Đặc điểm và nguyên nhân gây bệnh

 Ổ dịch đầu tiên được phát hiện ở Trung Quốc vào 4/2010, đây là dịch bệnh nghiêm trọng trên vịt đầu tiên có nguyên nhân từ Flavivirus.

Bệnh nhanh chóng lan sang hầu hết các vùng chăn nuôi vịt ở Trung Quốc, bao gồm nhiều tỉnh ven biển và các vùng lân cận, tỉnh An Huy, thành phố tự trị Bắc Kinh, tỉnh Hà Bắc, tỉnh Phúc Kiến, tỉnh Quảng Đông, tỉnh Quảng Tây, Tỉnh Giang Tô, tỉnh Giang Tây, tỉnh Sơn Đông và tỉnh Chiết Giang.

Bệnh do Tembusu virus gây ảnh hưởng to lớn tới nền công nghiệp chăn nuôi vịt, đặc biệt ở các nước nuôi vịt nhiều như Trung Quốc và các nước Đông Nam Á (Thái Lan, Malaysia, Việt Nam…).

Tembusu Virus có thể được truyền qua chim và muỗi. Chúng cũng có thể lây truyền qua ô nhiễm phân, môi trường, thức ăn, nước uống, thiết bị và vận chuyển.

Việc vận chuyển vịt bị nhiễm độc ở các khu vực khác nhau (hoặc phương tiện vận chuyển bị ô nhiễm) có thể dễ dàng trở thành một kênh truyền tải quy mô lớn và nhanh chóng của flavivirus.

 

                   

2. Nhận biết qua triệu chứng và bệnh tích

Triệu chứng bệnh

  •  Vịt đẻ được đặc trưng bởi giảm năng xuất trứng. Lượng thức ăn của vịt đẻ trứng đột nhiên giảm xuống, nhiệt độ cơ thể tăng lên và tinh thần bị suy nhược.
  • Sau 2-3 ngày, sản lượng trứng giảm mạnh. Trong vòng 1 – 2 tuần, tỷ lệ sản xuất trứng giảm từ 80% – 90% xuống dưới 10% và tốc độ sản xuất trứng dần hồi phục sau 30 ngày.
  • Tiêu chảy phân xanh cũng thường xuyên xuất hiện trong đàn.
  • Vịt con có biểu hiện đặc trưng là viêm não, một số có biểu hiện đi lại bất thường, khó khăn hoặc bị liệt, biểu hiện thần kinh như quay, lắc đầu liên tục.
  • Tỷ lệ chết dao động từ 5 tới 15% tùy thuộc vào điều kiện chăm sóc. Nếu bội nhiễm có thể chết 30 – 50% đàn.
  • Vit bệnh đứng không vững vững, hai chân dạng ra khi đi, chân co giật, đầu cổ co giật; dễ lăn ngã khi đi, ngã ngửa bụng hướng lên, chân bơi như vật vã, cuối cùng chết do kiệt sức.

Bệnh tích mổ khám

  •  Vịt con, vịt thịt: Biểu hiện phù não, màng não có các điểm xuất huyết lan tràn với các kích cỡ khác nhau và mao mạch máu bị tắc nghẽn.
  • Buồng trứng xuất huyết nghiêm trọng.
  • Viêm buồng trứng và thoái hóa trứng non luôn xuất hiện kéo dài dai dẳng ở vịt mắc bệnh. Các nang trứng viêm, xuất huyết, hoại tử hoặc vỡ gây viêm phúc mạc. Ống dẫn trứng phù nề, xuất huyết.
  • Lách sưng to và sung huyết.
  • Cơ tim thoái hoá, hoại tử vằn, trắng như luộc, tích dịch trong xoang ngực.
  • Gan sưng to, nhạt màu hoặc có màu vàng, xoang bụng tích dịch màu vàng.
  • Bong tróc dạ dày cơ, xuất huyết ở dạ dày tuyến. Niêm mạc ruột có xuất huyết lan tràn.
  • Phù nề và xuất huyết or hoại tử tuyến tuỵ.

3. Chẩn đoán bệnh

Dựa vào các triệu chứng, bệnh tích lâm sàng

Chẩn đoán sinh học phân tử: PCR, rt – PCR

4. Biện pháp phòng bệnh

Bệnh do Tembusu virus (BYD) chưa có vắc xin phòng bệnh lưu hành hành chính thức ở Việt Nam), vì vậy người chăn nuôi cần chủ động thực hiện tốt các biện pháp An toàn sinh học  như vệ sinh, định kỳ sát trùng chuồng trại và khu vực chăn nuôi, chăm sóc nuôi dưỡng tốt.

Vệ sinh phòng bệnh

  • Tuân thủ và thực hiện nghiêm ngặt chương trình vaccine phòng bệnh trên vịt đẻ.
  • Tăng cường trợ sức, trợ lực cho đàn vịt bằng các loại thuốc bổ trợ (Vitamin, khoáng chất…) và men tiêu hoá sống.
  • Khi thời tiết thay đổi cần chủ động điều trị dự phòng các bệnh nhiễm khuẩn bằng kháng sinh, Gluco KC, Vitamin C.
  • Kiểm soát và thực hiện tốt các biện pháp an toàn sinh học trong chăn nuôi.
  • Phun sát trùng chuồng trại định kỳ 1 – 2 lần/tuần.
  • Phát quang bụi rậm, cây cỏ và khơi thông cống rãnh.
  • Diệt bọ gậy và định kỳ diệt ruồi muỗi trong và ngoài chuồng nuôi.

Phòng bệnh bằng vaccine

Một số hình ảnh minh họa:

 

 

          

                      

              

                                                                                                                                                 NGUỒN: BÁO NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM