Giới thiệu
Trong các hệ thống nuôi, chi phí thức ăn vẫn là trở ngại chính, chiếm khoảng 60%, trong đó protein là chất dinh dưỡng quan trọng và đắt tiền nhất trong khẩu phần ăn của tôm.
Trong số một số loài vi tảo, S. platensis đã thể hiện tiềm năng dinh dưỡng lớn hơn như là nguồn cung cấp protein, vitamin, acid béo không bão hòa đa, bên cạnh đó còn có một hỗn hợp tự nhiên của các nguyên tố sinh học có chức năng trong khẩu phần ăn của các động vật thủy sản khác nhau, chủ yếu là cá, dẫn đến ảnh hưởng đáng kể đến tăng trưởng, tỷ lệ sống, hệ miễn dịch và màu sắc sau khi ăn.
Dựa trên những dữ liệu này, nghiên cứu đánh giá hiệu quả của Spirulina platensis ở các nồng độ khác nhau trong khẩu phần đối với năng suất của tôm thẻ chân trắng L. vannamei.
Phương pháp nghiên cứu
BỐ TRÍ THÍ NGHIỆM
Các thí nghiệm được thực hiện tại Trung tâm Nghiên cứu và Chế biến Thực phẩm (NUPPA) Brazil kéo dài 45 ngày. Hộp Polyetylen 30L được sử dụng trong hệ thống mở với sự sục khí liên tục từ máy nén khí gắn với một ống mềm và được phân phối đến từng bể với đá xốp để tản oxy và chiếu sáng nhân tạo, với chu kỳ quang 24 giờ. Thiết kế ngẫu nhiên, gồm 5 chế độ với 3 lần lặp lại. Tôm trọng lượng trung bình 1,42 ± 0,23g, giảm dần độ mặn xuống 2,5%, được phân bố trong các nghiệm thức tương ứng với mật độ 10 con/chế độ.
XÂY DỰNG KHẨU PHẦN ĂN
5 chế độ ăn isoproteic (35% protein thô) và isoenergetic (3400 kcal DE/kg) được xây dựng bằng cách sử dụng một phần mềm (CRAC phiên bản 4.0) với tỷ lệ khác nhau của S. platensis (SPLF): F (0%), F (10%), F (20%), F (30%) và F (40%), được đưa vào quy trình ép viên, trong đó các nguyên liệu khô được nghiền nát, cân và trộn trong máy trộn công nghiệp cùng với bổ sung vitamin (Premix) và dầu, thêm nước ở 60°C cho đến khi lượng ẩm phù hợp. Hỗn hợp này được đưa vào máy nghiền bằng tay để tạo thành các viên có đường kính 2 mm, sau đó được sấy khô trong lò ở 80°C trong 24 giờ và được bảo quản trong túi giấy ở nhiệt độ phòng.
CHO ĂN
Chế độ ăn thử nghiệm được cung cấp 3 lần/ngày, và chế độ ăn thương mại (CF) để đối chứng. Hút chất thải được thực hiện 2 ngày/lần để loại bỏ thức ăn thừa và phân.
PHÂN TÍCH HÓA LÝ CỦA NƯỚC
Oxy hòa tan và nhiệt độ hàng tuần bằng máy đo oxy kỹ thuật số (QUIMISQ758P). pH được đo bằng máy đo pH kỹ thuật số QUIMIS và việc loại bỏ độ mặn được đo 2 lần/tuần bằng máy đo khúc xạ kiểu BR11 từ 0 - 3,5‰. Chất lượng nước được duy trì bằng cách thay mới hàng ngày 10%.
THÀNH PHẦN CỦA KHẨU PHẦN ĂN
Thành phần gần đúng của khẩu phần được xác định 3 lần bằng cách phân tích độ ẩm, tro, chất béo và protein theo các phương pháp được mô tả bởi AOAC (2000).
THÀNH PHẦN AMINO ACID CỦA TÔM
Mức độ amino acid của tôm được xác định bằng phương pháp của White et al. (1986) trong mẫu trước đó được thủy phân trong acid chloric 6N chưng cất lại, tạo dẫn xuất trước cột của các amino acid tự do với phenylisothiocyanate (PITC). Việc xác định các dẫn xuất của amino acid phenylthiocarbamil (PTC-aa) được thực hiện trong sắc ký lỏng (VARIAN, Waters 2690, California, Hoa Kỳ).
HIỆU SUẤT TĂNG TRƯỞNG
Tỷ lệ sống (%) = (Số lượng tôm cuối cùng/Số lượng tôm ban đầu) × 100
Tăng trọng (%) = (Trọng lượng trung bình cuối cùng - Trọng lượng trung bình ban đầu)
SGR (%/ngày) = ln trọng lượng cuối cùng - ln trọng lượng ban đầu × 100t
Tỷ lệ chuyển hóa thức ăn = (Tiêu tốn thức ăn/Tăng trọng)
PHÂN TÍCH THỐNG KÊ
Các biến số tăng trưởng của tôm và các thông số chất lượng nước được phân tích bằng phân tích phương sai (ANOVA) để xác định ảnh hưởng của mức độ thay thế protein và ảnh hưởng của các nghiệm thức đến tăng trưởng, xem xét mức ý nghĩa 5%.
Kết quả và thảo luận
CHẤT LƯỢNG NƯỚC
Chất lượng nước không thay đổi đáng kể trong suốt thời gian thí nghiệm (Bảng 1) với nhiệt độ dao động từ 28 - 30°C, pH từ 6 - 9 và DO trên 4 mg/L theo Boyd (2002). Boyd cũng khuyến nghị độ mặn 2,5% là lý tưởng để đạt được tốc độ tăng trưởng tối ưu, đồng thời nhấn mạnh rằng loài này thích nghi với các mức độ mặn thấp hơn.
Bảng 1. Trung bình ± độ lệch chuẩn của các thông số hóa lý của nước trong quá trình nuôi được bổ sung chế độ ăn khác nhau
THÀNH PHẦN HÓA HỌC CỦA KHẨU PHẦN ĂN
Thành phần hóa học của khẩu phần thí nghiệm được trình bày trong Bảng 2, với giá trị protein khoảng 35%. Tỷ lệ này được coi là lý tưởng cho sự phát triển của tôm thẻ chân trắng. Đối với độ ẩm, các giá trị dưới 13% thường được tìm thấy trong khẩu phần thương mại và được coi là thích hợp để xây dựng khẩu phần ăn cho động vật thủy sản tránh làm khô quá mức và giảm chất lượng protein của thức ăn viên.
Giá trị lipid dao động từ 6,7 - 7,1%, phù hợp với giá trị yêu cầu của loài này (6 - 7,5%). Theo González-Félix et al. (2002), các giá trị này được coi là lý tưởng để tránh giảm tốc độ tăng trưởng và tăng tỷ lệ chết của tôm; liên quan đến giá trị tro, khẩu phần cho thấy giá trị tương tự như trong khẩu phần thương mại, tối đa là 13%, theo quan sát của Melo (2003), khi phân tích khẩu phần thương mại cho tôm.
Bảng 2. Công thức khẩu phần ăn được sử dụng trong thí nghiệm
AMINO ACID
Trong thành phần mô cơ của tôm thẻ chân trắng (Bảng 3), nồng độ arginine, lysine và methionine cao hơn đã được quan sát thấy ở động vật được nuôi bằng chế độ ăn có bổ sung 10 và 40% S. platensis. Tuy nhiên, hàm lượng methionine ở động vật được nuôi bằng chế độ ăn bổ sung 10% thấp hơn so với giá trị nhu cầu cơ đối với loài tôm này được nuôi bằng chế độ ăn thương mại. Trong khi đó, sự mất cân bằng trong các amino acid, ngay cả khi nó được đại diện bởi một amino acid thiết yếu duy nhất, có ảnh hưởng ngay lập tức đến việc đáp ứng nhu cầu protein. Về sự cân bằng năng lượng, người ta quan sát thấy rằng khẩu phần chứa 40% S. platensis cung cấp nồng độ amino acid tốt nhất cho năng suất tăng trưởng ở tôm.
Theo Holme et al. (2009), khẩu phần có chứa amino acid với tỷ lệ tương tự như trong cơ tôm mang lại tỷ lệ tăng trưởng và tỷ lệ sống tốt nhất trong quá trình nuôi và chất lượng khẩu phần không nhất thiết liên quan đến tổng lượng protein, mà là sự bổ sung cân bằng amino acid có thể được tìm thấy trong S. platensis có trong thành phần của nó, với một protein hoàn chỉnh chứa tất cả các amino acid thiết yếu và không thiết yếu (Di Lifetec Co LTD, 2009).
Bảng 3. Thành phần amino acid trong cơ của tôm được cho ăn bằng chế độ ăn thử nghiệm sử dụng SPLF
CÁC THÔNG SỐ TĂNG TRƯỞNG
Vào cuối 45 ngày thử nghiệm, sự khác biệt đáng kể đã được quan sát thấy do trọng lượng cuối cùng và tăng trọng của tôm tăng lên, tỷ lệ S. platensis trong khẩu phần tăng lên, cho thấy kết quả tốt hơn trong các thông số này với tỷ lệ phần trăm 30 và 40%. Tuy nhiên, khi so sánh với chế độ ăn thương mại, kết quả thấp hơn được quan sát thấy, nhưng với giá trị gần với giá trị thu được khi bổ sung 40%. Các tài liệu đã cho thấy kết quả tốt hơn đối với sự tăng trưởng khi bổ sung S. platensis lên đến 25% trong chế độ ăn của một số loài cá (Bảng 4).
Theo Abdel-Tawwab và Ahmad (2009), những tác động tích cực này đối với sự tăng trưởng là do khả năng tiêu hóa chất dinh dưỡng và hàm lượng dinh dưỡng cao có trong S. platensis. Tỷ lệ sống trung bình của tôm cho thấy sự khác biệt đáng kể, và kết quả không bị ảnh hưởng bởi tỷ lệ S. platensis trong khẩu phần ăn, với giá trị cao, cho thấy tác động tích cực thúc đẩy điều kiện nuôi tốt hơn. Jaime-Ceballos và cộng sự. (2007) báo cáo rằng sự gia tăng 25% số vi tảo này trong chế độ ăn của hậu ấu trùng Litopenaeus schmitti cho thấy tỷ lệ tăng trưởng và tỷ lệ sống cao hơn. Ghaeni và cộng sự. (2011) đã sử dụng S. platensis trong khẩu phần ăn của tôm sú Penaeus semisulcatus và thu được kết quả tăng trọng tốt hơn. Tuy nhiên, hầu hết các nhà nghiên cứu đã sử dụng vi tảo để làm thức ăn cho cá bao gồm cả cá rô phi.
Tỷ lệ chuyển hóa thức ăn cao hơn được quan sát thấy ở tôm được nuôi bằng chế độ ăn thương mại; tuy nhiên, khẩu phần có S. platensis cho kết quả khả quan theo Boyd (1997), cho thấy tỷ lệ chuyển hóa thức ăn tốt từ 0,9 - 1,5, kết luận rằng vi tảo này có khả năng kích thích lượng thức ăn ở động vật ngay cả ở mức độ đưa vào khẩu phần thấp.
Bảng 4. Các thông số tăng trưởng của tôm được nuôi bằng khẩu phần thí nghiệm
Kết luận
Việc sử dụng S. platensis trong nuôi tôm thẻ chân trắng cho thấy những tác động tích cực đến chất lượng nước và là nguồn bổ sung thức ăn, tác động lên tăng trưởng, trọng lượng và chiều dài, với tỷ lệ sống cao ở tất cả các nghiệm thức. Tuy nhiên, mức 40% cho thấy thành phần amino acid tốt hơn, với kết quả có ý nghĩa hơn trong năng suất của tôm.
Nguồn Copy